BẢY LÁ MỘT HOA- THẤT DIỆP NHẤT CHI HOA
Còn gọi là thất diệp
nhất chi hoa, độc cước liên, thiết đãng đài, chi hoa đầu, tảo hưu, thảo hà xa.
Tên khoa học Paris polyphylla Sm.
Họ Hành tỏi: Liliaceae
Có thể nó là cây quý hiếm cho nên sự tiếp cận của các nhà khoa học còn hạn chế chăng?
Trong "NHỮNG CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC VIỆT NAM" tác giả Đỗ Tất Lợi đã không thể cho biết Thất diệp nhất chi hoa có thể có ở khắp dãy Trường Sơn.
Hình ảnh kèm theo trong bài viết này là được ghi lại ở khu rừng phía tây huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
A. Mò tả cây
Cây bảy lá một hoa Là một loại cỏ nhỏ, có dạng rất đặc biệt, sống lâu nãm, thàn rê ngắn, dài chừng 5-15cm, đường kính 2,5-2,5cm rất nhiều đốt, khó bẻ, vết bẻ trông như có bột, màu vàng trắng hay xám vàng, Từ thân rễ nổi lên mặt đất một thân mọc thẳng đứng cao tới 1 mét, phía gốc có một số lá thoái hóa thành vẩy, bao lâý thân cây. Giữa thân có một tầng lá mọc vòng gổm 3 đến 10 lá, nhưng thường là 7 lá, cuống lá dài 2,5-3cm, phiến lá hình mác rộng, dài 15- 21cm, rộng 4-8cm, đầu phiến lá nhọn, mép nguyên, hai mặt nhẩn, mặt dưới màu xanh nhạt, đôi khi có màu tím nhạt. Hoa mọc đơn độc ở đinh cành, cuống hoa dài 15-30cm. Lá đài gồm 5 đến 10, thường là 7, màu xanh lá cây, dài 3- 7cm. rời từng cái một, trông như lá, không rụng. SỐ cánh tràng bằng số lá đài, hình sợi rủ xuống, màu vàng mâu, chiều dài bằng hay ngắn hơn chiều dài của lá đài. Nhụy màu tím đố, bầu thường gồm 3 ngăn. Quả mọng màu tím đen. Mùa hoa vào các tháng 3, 4, 5 (vùng Sapa), mùa quả và các tháng 10-11 (Hình 50).
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây bảy lá một hoa được phát hiện gần đây tại các vùng núi Cúc Phương thuộc Nam Hà, Ninh Bình, Sapa (Lào Cai), Đà Bắc (Hoà Bình), Sơn Động (Hà Giang). Trước đây không thấy mô tà trong Bộ thực vật chí Đông Dương. Đầu năm 1934, Péctelot có phát hiện thấy quanh vùng Sapa nhiều loài khác nhau (xem phần chú thích), nhưng chưa được khai thác sử dụng.
Người ta thường dùng thân rễ với tên tảo hưu, có thể thu hái quanh nãm, nhưng tốt nhất vào thu đông, đào VỂ rửa sạch, phơi khô.
Trong tào hưu, người ta đã nghiên cứu thây có chất glucozit, tính chất saponin gọi là paridin C]6H28O7 và paristaphin C38H64O18 cũng là một glucozit (theo Lý Thừa Cố, 1960, Trung Quốc dược dụng thực vật đồ giám, Bắc Kinh).
Trong thần rễ và quả loài Paris quadrifolia L. người ta chiết được một glucozit gọi là paristaphin, khi thủy phân paristaphin sẽ cho glucoza và một glucozit mới gọi là paridin, thủy phân paridin, ta lại được glucoza và một chất nhựa gọi là paridol.
Cây bảy lá một hoa còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi dân gian. Theo đông y, vị tào hưu (thân rễ của cây bảy lá một hoa) có vị ngọt, hơi cay, tính bình không độc. Tác đụng chủ yếu của nó là thanh nhiệt giải độc, nhất là đối với loài rắn độc. Tại vùng Quảng Tây (Trung Quốc) trong nhân dân có câu ngạn ngữ:
“ Ôc hữu thất diệp nhất chi hoa,
Độc xà bất tiến gia”
nghĩa là trong nhà mà có cây bảy lá một hoa thì rắn độc không vào được. Ngoài công dụng chữa sốt và rắn độc, vị tảo hưu còn dùng chữa mụn nhọt, viêm tuyến vú, sốt rét, ho lao, ho lâu ngày, hen xuyễn, dùng ngoài thì giã đắp lên những nơi sưng đau.
Ngày dùng 4 đến 12g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài không kể liều lượng.