Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2025

NHỮNG PHƯƠNG THUỐC HAY

 MẬT ONG VÀ QUẾ

Theo bài đăng trên tạp chí “Tin tức thế giới hàng tuần” (Weekly World News) ngày 17/01/1995 xuất bản tại Canada, đã liệt kê một số các chứng bệnh được chữa khỏi (cured) do hỗn hợp mật ong và bột quế, được các nhà khoa học Phương Tây nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến ra công chúng. Theo họ thì mật ong đã được khắp thế giới biết và được xử dụng như là 1 loại dược chất sinh học (Vital medicine) từ nhiều thế kỷ trước. Ngày nay, qua khảo sát và nghiên cứu kiểm chứng, các khoa học gia đã nhận thấy và chấp nhận mật ong là 1 loại dược chất chữa được nhiều chứng bệnh.


Chữa bệnh bằng quế và mật ong


Điểm đặc biệt là mật ong không có phản ứng phụ đối với bất cứ căn bệnh nào. Trong đó người ta cho biết, dù mật ong tuy vị ngọt, nhưng nếu dùng với liều lượng vừa phải như là 1 loại dược chất, nó cũng sẽ không gây ảnh hưởng nguy hại cho người tiểu đường. 

Liều lượng và cách xử dụng cho các bệnh được hưởng dẫn như sau:

1. Đau khớp xương

a) 1 phần mật ong, 2 phần nước ấm, 1 muỗng café bột quế. Trộn  lại thành 1 hỗn hợp sền sệt rồi đắp lên chỗ đau nhức và thoa  chầm chậm, nhè nhẹ. Cơn đau sẽ giảm nhẹ sau vài phút.

b) Người ta cũng có thể pha 2 muỗng café mật ong 1 muỗng café   bột quế trong 1 ly nước nóng, uống đều đặn hàng ngày vào buổi   sáng và buổi tối có thể giúp cho những người bị đau khớp xương  kinh niên thoát khỏi các cơn đau.

Trong một công cuộc nghiên cứu tại Đại Học Copenhagen người ta đã ghi nhận rằng: các BS khi điều trị các bệnh nhân bị đau nhức với 1 hỗn hợp gồm: 1 muỗng mật ong và 1/2 muỗng café bột quế vào bữa điểm tâm, sau 1 tuần lễ, kết quả 200 người được điều trị 73 người đã hoàn toàn hết đau, và sau 1 tháng được chữa trị hầu hết các bệnh 

2. Cao mỡ trong máu (High cholesterol)

2 muỗng soup mật ong, 3 muỗng café bột quế, 30 cc  nước trà. Quậy đều để cho người bị cao mỡ trong máu uống, sau 2 giờ, đo lượng Cholesterol trong máu người ta thấy giảm xuống 10%.


- Cũng theo tài liệu của tạp chí Weekly World News thì nếu người bị cao Cholesterol dùng mật ong nguyên chất với thực phẩm hàng ngày có thể giảm lượng cholesterol đáng kể.

- Đối với người bị đau khớp xương kinh niên, nếu uống theo công thức trên, 3 lần trong 1 ngày thì ngoài giảm bớt đau nhức khớp xương ra còn giảm được Cholesterol trong máu nữa.


3. Bệnh về tim mạch (Heart diseases)

Trộn mật ong và bột quế sền sệt rồi quết lên bánh mì thay cho mứt trái cây (Jelly Jam) dùng cho bữa điểm tâm mỗi sáng. Nếu ăn đều đặn như thế có thể làm giảm lượng Cholesterol trong các mạch máu, điều nầy giúp cho các bệnh nhân bị bệnh tim mạch tránh được chứng đột qụy (heart attack).

Nếu những ai đã từng bị đột qụy rồi thì có thể tránh xa được cơn đột qụy kết tiếp, khi tiếp tục ăn điểm tâm như kể trên.

4. Tăng cường hệ thống miễn nhiễm (Immune system)

Nếu dùng mật ong và bột quế hàng ngày sẽ giúp cho hệ thống miễn nhiễm được tăng mạnh thêm và giúp bảo vệ cho cơ thể khó bị vi trùng và siêu vi khuẩn tấn công.

Xử dụng mật ong đều đặn sẽ giúp cho bạch huyết cầu tăng thêm khả năng chống lại sự xâm nhập của vi trùng và siêu vi khuẩn trong các mầm bệnh.

5. Nhiễm trùng đường tiểu (Blađer infection) Bàng quang

Lấy 2 muỗng canh bột quế, 1 muỗng café mật ong, 1 ly nước ấm. Quậy đều rồi uống cạn sẽ tiêu điệt được các vi trùng (Germ- mầm bệnh) mầm bệnh trong bàng quan.

6. Nhức răng (Toothache)

Dùng 5 muỗng café mật ong, 1 muỗng café bột quế trộn lại với nhau thành hợp chất sền sệt rồi đắp lên chỗ răng đau. Làm như vậy 3 lần trong 1 ngày cho đến khi răng không còn đau nữa.

7. Cúm (Influenza). 

Một khoa học gia tại Tây Ban Nha đã chứng minh rằng, trong mật ong có chứa 1 chất thiên nhiên có khả năng tiêu diệt được các mầm siêu vi của bệnh cảm cúm giúp cho người ta khỏi bị cúm (Flu).

8. Cảm lạnh (Colds)

Đối với những người bị cảm lạnh thường hay cảm nặng có thể dùng:1 m uỗng canh mật ong hâm ấm lên (Warm) và 1/4 muỗng café bột quế. Dùng liên tục trong vòng 3 ngày thì có thể chữa lành được các chứng ho kinh niên, và cảm lạnh cũng như chảy nước mũi cũng ngưng lại.

9. Các chứng về tiêu hóa )  Bao tử.

a) Bao tử khó chịu (Upset stomach): Mật ong và bột quế có thể   chữa lành bệnh đau bao tử cũng như trị tận gốc bệnh bao tử.

b) Bao tử đầy hơi (Gas): Theo những nghiên cứu đã thực hiện tại   Nhật Bản và Ấn Độ cho thấy, mật ong và bột quế đã làm hết bị   đầy hơi trong bao tử.

c) Bột quế được trộn chung với 2 muỗng canh mật ong dùng trước   khi tham dự 1 bữa ăn thịnh soạn nhiều thịt thà sẽ giúp cho người   ta tiêu hóa được các bữa ăn đó dễ dàng.

10. Mệt mỏi (Fatigue).

Các nghiên cứu thấy rằng, chất ngọt trong mật ong giúp cơ thể con người tốt hơn là làm hại. Cho nên những người cao niên dùng mật ong và bột quế với tỉ lệ bằng nhau giúp cho họ dẻo dai và tinh tường hơn. Theo BS Milton sau khi đã nghiên cứu nói rằng: Khi người ta cảm thấy sự sinh động của mình bắt đầu suy giảm, hãy dùng hằng ngày, sau khi đánh răng vào buổi sáng và khoảng lúc 3 giờ chiều, 1 ly nước ấm trong đó pha 1/2 muỗng canh mật ong ngoáy đều với 1 muỗng café bột quế. Kết quả sẽ thấy sự sinh động của mình lên trở lại trong vòng 1 tuần lễ.

11. Kéo dài tuổi thọ (Longivety)

Khi uống nước trà pha với mật ong và bột quế đều đặn mỗi ngày, người ta có thể làm chậm sự lão hóa, kéo dài thêm tuổi thọ, theo công thức như sau: 4 muỗng mật ong, 1 muỗng bột quế bỏ vào 1 bình trong đó có 3 ly nước rồi đem đun sôi lên như người ta pha nước trà.

Cách dùng: Mỗi lần uống 1/4 ly, mỗi ngày 3 hay 4 lần. Kết quả tốt sẽ thấy là da dẻ hồng hào tươi trẻ, mịn màng. Thực thế tôi quen biết 1 vị cao niên tên là Cụ Mai Phương 86t, đã áp dụng phương pháp nầy hơn 20 năm nay. Cách uống là thêm vài giọt chanh vào ly nước trước khi uống, sức khỏe rất tốt.

12. Giảm cân, chống béo mập (Weight loss)
Hàng ngày 1/2 giờ trước khi ăn điểm tâm lúc bụng đói và 1/2 giờ trước khi đi ngủ hãy uống 1 lý nước đun sôi có pha 1 muỗng mật ong và 1 muỗng café bột quế. Nếu uống như vậy đều đặn hàng ngày thì ngay cả người bị béo phì cũng giảm chậm sự tích tụ chất béo trong cơ thê, và có hiệu quả ngay đối với người ăn các loại thực phẩm có nhiều Calories trong bữa ăn hàng ngày.

13. Da bị nhiễm trùng (Skin infection)
Khi da bị lát đồng tiền (Ring worm) và các loại nhiễm trùng da có thể chữa trị bằng cách đắp lên vùng da bị nhiễm trùng 1 hỗn hợp trộn mật ong và bột quế với phân lượng bằng nhau.

14. Trị mụn (Pimples)
Với công thức 3 muỗng canh mật ong và 1 muỗng café bột quế trộn lại sền sệt bôi lên các mụn trước khi đi ngủ, sáng hôm sau rửa mặt bằng nước ấm. Làm như thế trong vòng 2 tuần lễ thì các mụn sẽ được trị tận gốc

15. Trị hôi miệng (Bad breath)
Để trị hôi miệng, hơi thở được thơm tho, những người dân tại vùng Nam Mỹ đã làm việc đầu tiên vào buổi sáng là súc miệng với 1 ly nước nóng có pha với 1 muỗng café mật ong và bột quế quậy đều. Hơi thở của họ không hôi và thơm mùi quế suốt cả ngày.

16. Giúp phục hồi thính giác bị suy giảm, điếc (Hearing loss)
Hàng ngày uống đều đặn vào mỗi buổi sáng và buổi tối trước khi ngủ 1 ly nước ấm có pha mật ong và bột quế với phân lượng bằng nhau, sẽ phục hồi lại tình trạng thính giác (tai) bị điếc, nghễnh ngãng.

17. Rụng tóc và hói đầu (Hair loss & Baldness)
Những người bị rụng tóc hay hói đầu có thể dùng phương cách  sau đây:
Lấy 1 muỗng canh mật ong và 1 muỗng café bột quế trộn với dầu Olive thành 1 hỗn hợp rồi bôi lên đầu khoảng 15 phút, sau đó đi tắm và gội đầu. Kết quả ghi nhận là rất có hiệu quả, ngay cả khi đi tắm và gội đầu 5 phút sau khi bôi.
Ngoài ra bài báo còn nói đến hiệu quả tốt đẹp của việc xử dụng hỗn hợp mật ong và bột quế trong các trường hợp bị vô sinh (Infertility) và bệnh ung thư (Cancer).


18. Vô sinh (Infertility)
- Yunami & Ayurredic đã dùng mật ong từ lâu trong Y Học để giúp cho tinh dịch của người Nam (Male) được tăng thêm sức mạnh của nó.

- Người ta cũng ghi nhận người đàn ông bị bất lực, nếu uống 2 muỗng canh mật ong mỗi ngày trước khi đi ngủ thì tình trạng bất lực có thể được giải quyết tốt đẹp.

- Tại Trung Hoa , Nhật Bản và một số các nước vùng Viễn Đông, 
đối với các phụ nữ không thể đậu thai từ nhiều thế kỷ đã được khuyên dùng bột quế để giúp cho buồng trứng và tử cung cải thiện dễ thụ tinh, mang bầu.

- Các phụ nữ không thể có bầu thì có thể dùng 1 Pinch bột quế hòa với 1/2 muỗng café mật ong, rồi ngậm trong miệng thường xuyên suốt ngàỵ 2 thứ nầy được trộn lẫn với nước bọt trong miệng rồi từ từ ngấm vào cơ thể để mang lại thuận lợi cho người phụ nữ đậu thai.


Người ta đã ghi nhận 1 cặp vợ chồng tại tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ; cưới nhau 14 năm không có con và họ gần như  tuyệt vọng... Nhưng khi được mách bảo phương các dùng mật ong và bột quế, 2 vợ chồng đã cùng áp dụng phương pháp trên; chỉ vài tháng sau người vợ đã mang thai và sinh đôi với 2 đứa con khỏe mạnh bình thường.

19. Đối với bệnh ung thư (Cancer)
Những nghiên cứu mới đây tại Nhật Bản và Úc Châu đã ghi nhận tình trạng ung thư bao tử và ung thư xương đang phát tác, đã được điều trị 1 cách hiệu quả bằng mật ong và quế. Sau khi những bệnh nhân đang mắc phải ung thư bao tử và xương dùng như sau: Uống 1 muỗng canh mật ong và 1 muỗng café bột quế trộn đều, mỗi ngày 3 lần liên tiếp trong 1 tháng.

Phần cuối của tài liệu ghi chú:
Những ai đã có được các kết quả tốt từ tài liệu nầy, hãy truyền tay lại cho những người khác để cùng nhau hưởng lợi ích của
 Quế và Mật ong.

(Tài liệu này của Weekly World News, Canada, 17/01/1995)

 


Thứ Sáu, 3 tháng 11, 2023

CÂY THUỐC QUÝ CHỮA ĐƯỢC BỆNH UNG THƯ

 CÂY THUỐC QUÝ CHỮA ĐƯỢC BỆNH UNG THƯ

(Muốn chữa được bệnh ung thư thì phải kiên trì)

Có thể đã hơn 500 năm hay đã hơn cả ngàn năm qua rồi, người Thượng sống ở phía tây Quảng Nam Đà Nẵng đã biết công dụng chữa bệnh của cây thuốc giấu.
Nhà tôi sống gần với làng của đồng bào thượng, những năm chiến tranh thì bà con người thượng về sống cùng chúng tôi, cái mà người kinh chúng tôi thấy lạ nhất là người đàn bà thượng sau khi sinh con họ chỉ cần hái một ít lá rừng để nấu uống và nấu tắm, một hai hôm sau họ có thể đi làm hay đi tắm giặt mà không lo sợ cái chứng hậu sản hay sản hậu gì đó cả.
Cây lá mà tôi đã đề cập đó là:
CÂY THUỐC THƯỢNG
Còn có các tên khác: Thuốc mọi, Thuốc giấu, Thuốc Cà doong,...
Tên khoa học là Phaeanthus vietnamensis Ban, thuộc họ mãng cầu (Annonaceae) Dòng cây này chỉ phân bố ở vùng núi thấp từ vĩ tuyến 14.5 đến 16 độ!
Trong góc của một status của Facebook tôi chỉ xin nêu một số công dụng chữa bệnh của cây thuốc Thượng để mọi người nếu có quan tâm thì tham khảo.
Ngoài làm thuốc uống sau khi sinh như đã nêu trên, với bệnh đau mắt đỏ thì chỉ cần lấy 2 lá thuốc thượng cho vào nồi cơm đang cạn hấp cho tiệt trùng sau đó v ắt lấy nước để nhỏ vào mắt, chữa các bệnh về mắt, đặc biệt là bệnh đau mắt đỏ rất nhanh lành.

Các kết quả phân tích khoa học cho thấy Các alkaloide có trong thân lá của cây có khả năng kháng khuẩn và kháng oxy hóa rất mạnh. Gây độc cho tế bào ung thư thuộc các dòng:
MCF-7 Ung thư vú
NCl-H460 Ung thư phổi
HepG2 Ung thư gan
Hela Ung thư cổ tử cung
Cũng vì có tính kháng khuẩn kháng virus và kháng oxy hóa cao cho nên bản thân thuốc thượng có thể giup hạ đường huyết, chữa hen phế quản, các ông có thể dùng nó để chữa yếu sinh lý,...
LD 50 của cao lỏng thân lá cây này là: 135,631 số liệu nghiên cứu này cho thấy tính an toàn của cây thuốc thượng rất cao, mọi người có thể an tâm tối đa trong việc sử dụng nó để làm thuốc!
Thật lấy làm tiếc, hiện nay rừng lá thấp đã bị khai thác để trồng cây keo lá tràm làm giấy,...
Nếu không thật sự cần thiết thì xin đừng chặt phá nó.

Thứ Hai, 19 tháng 6, 2023

NGÀY TẾT ĐOAN NGỌ TRÙNG VỚI NGÀY HẠ CHÍ

 HÁI LÁ MÙNG NĂM

Tiết Hạ chí năm nay (22/6/2023) trùng với ngày Tết Đoan Ngọ - mùng 5 tháng 5 âm lịch, sự kiện này phải đợi đến 19 năm sau mới xuất hiện trở lại.
Ngày Hạ chí là ngày có thời gian mặt trời chiếu sáng trong ngày cao nhất trong năm, cũng chính vì được chiếu sáng nhiều nhất cho nên thực vật bậc cao thu được nhiều năng lượng từ ánh sáng mặt trời để rồi quang hợp và cho nhiều chất khô nhất).
Dân ta có phong tục Hái lá mùng Năm, Vậy nên, nếu có đi hái lá mùng Năm thì trong ngày mùng Năm của năm Quý Mão này hãy hái cho nhiều nhiều một chút, bởi vì, những lá hái vào những ngày mùng Năm tháng năm của 18 năm về trước và ngày mùng Năm tháng năm của 18 năm sau năm này sẽ không có chất lượng tốt hơn lá hái vào ngày 22/6/2023-Mùng Năm tháng Năm Quý Mão này đâu!


Thứ Tư, 14 tháng 6, 2023

THẤT DIỆP NHẤT CHI HOA

 BẢY LÁ MỘT HOA- THẤT DIỆP NHẤT CHI HOA

Còn gọi là thất diệp nhất chi hoa, độc cước liên, thiết đãng đài, chi hoa đầu, tảo hưu, thảo hà xa.

Tên khoa học Paris polyphylla Sm.

Họ Hành tỏi:  Liliaceae




Có thể nó là cây quý hiếm cho nên sự tiếp cận của các nhà khoa học còn hạn chế chăng?

Trong "NHỮNG CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC VIỆT NAM" tác giả Đỗ Tất Lợi đã không thể cho biết Thất diệp nhất chi hoa có thể có ở khắp dãy Trường Sơn.
Hình ảnh kèm theo trong bài viết này là được ghi lại ở khu rừng phía tây huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam

A.    Mò tả cây

Cây bảy lá một hoa Là một loại cỏ nhỏ, có dạng rất đặc biệt, sống lâu nãm, thàn rê ngắn, dài chừng 5-15cm, đường kính 2,5-2,5cm rất nhiều đốt, khó bẻ, vết bẻ trông như có bột, màu vàng trắng hay xám vàng, Từ thân rễ nổi lên mặt đất một thân mọc thẳng đứng cao tới 1 mét, phía gốc có một số lá thoái hóa thành vẩy, bao lâý thân cây. Giữa thân có một tầng lá mọc vòng gổm 3 đến 10 lá, nhưng thường là 7 lá, cuống lá dài 2,5-3cm, phiến lá hình mác rộng, dài 15- 21cm, rộng 4-8cm, đầu phiến lá nhọn, mép nguyên, hai mặt nhẩn, mặt dưới màu xanh nhạt, đôi khi có màu tím nhạt. Hoa mọc đơn độc ở đinh cành, cuống hoa dài 15-30cm. Lá đài gồm 5 đến 10, thường là 7, màu xanh lá cây, dài 3- 7cm. rời từng cái một, trông như lá, không rụng. SỐ cánh tràng bằng số lá đài, hình sợi rủ xuống, màu vàng mâu, chiều dài bằng hay ngắn hơn chiều dài của lá đài. Nhụy màu tím đố, bầu thường gồm 3 ngăn. Quả mọng màu tím đen. Mùa hoa vào các tháng 3, 4, 5 (vùng Sapa), mùa quả và các tháng 10-11 (Hình 50).

B.    Phân bố, thu hái và chế biến

Cây bảy lá một hoa được phát hiện gần đây tại các vùng núi Cúc Phương thuộc Nam Hà, Ninh Bình, Sapa (Lào Cai), Đà Bắc (Hoà Bình), Sơn Động (Hà Giang). Trước đây không thấy mô tà trong Bộ thực vật chí Đông Dương. Đầu năm 1934, Péctelot có phát hiện thấy quanh vùng Sapa nhiều loài khác nhau (xem phần chú thích), nhưng chưa được khai thác sử dụng.

Người ta thường dùng thân rễ với tên tảo hưu, có thể thu hái quanh nãm, nhưng tốt nhất vào thu đông, đào VỂ rửa sạch, phơi khô.

C.    Thành phần hóa học

Trong tào hưu, người ta đã nghiên cứu thây có chất glucozit, tính chất saponin gọi là paridin C]6H28O7 và paristaphin C38H64O18 cũng là một glucozit (theo Lý Thừa Cố, 1960, Trung Quốc dược dụng thực vật đồ giám, Bắc Kinh).

Trong thần rễ và quả loài Paris quadrifolia L. người ta chiết được một glucozit gọi là paristaphin, khi thủy phân paristaphin sẽ cho glucoza và một glucozit mới gọi là paridin, thủy phân paridin, ta lại được glucoza và một chất nhựa gọi là paridol.

D.    Công dụng và liều dùng

Cây bảy lá một hoa còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi dân gian. Theo đông y, vị tào hưu (thân rễ của cây bảy lá một hoa) có vị ngọt, hơi cay, tính bình không độc. Tác đụng chủ yếu của nó là thanh nhiệt giải độc, nhất là đối với loài rắn độc. Tại vùng Quảng Tây (Trung Quốc) trong nhân dân có câu ngạn ngữ:

“ Ôc hữu thất diệp nhất chi hoa,

Độc xà bất tiến gia”

nghĩa là trong nhà mà có cây bảy lá một hoa thì rắn độc không vào được. Ngoài công dụng chữa sốt và rắn độc, vị tảo hưu còn dùng chữa mụn nhọt, viêm tuyến vú, sốt rét, ho lao, ho lâu ngày, hen xuyễn, dùng ngoài thì giã đắp lên những nơi sưng đau.

Ngày dùng 4 đến 12g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài không kể liều lượng.


Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2023

CÂY CÀ DẠI HOA TRẮNG

 

Họ Cà: Solanaceae

Tên khoa học: Solanum torvum Swartz.

Tên khác: cà pháo, cà dại, cà hoang,...

Là cây dùng làm thuốc
Bộ phận dùng : cả cây/ đa phần dùng gốc và rễ.

1. Bài thuốc chữa ho mãn tính 
Dùng 10 – 15g rễ cà dại.sắc uống, ngày dùng 1 thang cho đến khi khỏi hẳn.

2. Bài thuốc chữa chứng khó tiểu tiện
Cành lá của cây đơn buốt và lá tươi của cây cà dại. Rửa sạch, thái nhỏ và hãm với nước uống như trà.



3. Bài thuốc chữa đau dây thần kinh và đau lưng
Kê huyết đằng, lá lốt, cà dại hoa trắng, dây gấm và thổ phục linh mỗi thứ 20g.Sao vàng và sắc uống ngày dùng 1 thang. Dùng liên tục ít nhất 10 thang để nhận thấy hiệu quả

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2023

CÁCH CHẾ BIẾN ĐU ĐỦ ĐỂ CHỮA BỆNH HIỆU QUẢ

 

Không phải cứ là thảo dược thì phải thực hiện sản xuất chế biến theo kiểu.... “Thu hái-Rửa sạch-Thái nhỏ-Sao vàng-Khử thổ,... sắc ba chén còn một chén, ba chén còn bảy phân,....”là được.

Nhiều chục năm qua, trong cộng đồng, người ta thông tin nhiều về hiệu quả chữa bệnh của cây đu đủ (Tên khoa học: Carica papaya L thuộc họ Caricaeae) rất cao, tuy nhiên do kiểu hướng dẫn đã nói ở trên hoặc là “Tam sao thất bổn”, hay hướng dẫn kiểu “đẻo cày giữa đường” ... mà từ “Phương thuốc hay- Bài thuốc quý” có trong nhân dân đã bị người dùng mất niềm tin.



Chính vì mục tiêu là sử dụng  các proteazae- papain có trong nhựa đu đủ để chữa bệnh mà việc “chiết xuất” để nhận lấy các chất này vô cùng quan trọng, phương pháp mà tôi đề nghị quý vị lưu tâm là: Sử dụng đường, Mật ong, mật mía để ngâm lá, hoa, quả, thân,... đủ đủ nhằm thu hồi các proteazae, papain được khuếch tán qua “dung môi”. Với tỉ lệ tùy theo nồng độ của các proteazae – papain có trong đu đủ, thông thường tỉ lệ mật/đu đủ là 70%
Và một điều không kém quan trọng là khi sử dụng các chất này làm thuốc không nên đun nấu mà chỉ hòa với nước ấm để uống!
 
Theo Đông y, Đu đủ còn gọi là Mộc qua,  lá đu đủ có tính hàn, vị ngọt, hơi đắng, có mùi hắc, giúp thanh nhiệt, giải độc, mát gan, bổ tì và nhuận tràng. Có hiệu quả cao trong việc chữa các chứng: 
1. Điều trị sốt xuất huyết
2. Giảm nhẹ rối loạn kinh nguyệt
3. Điều trị các vấn đề về da
4. Duy trì sức khỏe gan, thận
5. Điều trị sốt rét
6. Giảm bớt những thay đổi tâm lý
7. Hỗ trợ hệ tiêu hóa
8. Tăng cường năng lượng
9. Giảm viêm
10.  Cải thiện độ nhạy insulin (giúp chữa bệnh tiểu đường)
11. Tốt cho sức khỏe tim mạch
12. Điều trị chứng ợ nóng (do đau dạ dày)
13. Kích thích mọc tóc
14. Có đặc tính chống ung thư
15. Ngăn ngừa đục thủy tinh thể
16. Chống táo bón
17. Chữa bệnh về đường hô hấp, (viêm phổi, hen suyễn)
18. Giải độc cơ thể
 
1-    VỀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC TRONG LÁ ĐU ĐỦ 
Trong lá có rất nhiều Phytochemiscal cụ thể là:
·        Alcaloid (carpain, pseudocarpain, macrocyclic piperidin, dehydrocarpain I và II, nicotin,…);
·        Phenolic acid  (protocatechic acid, coumaric acid, caffeic acid, chlorogenic acid, coumarin,…);
·        Flavonoids (kaempferol, quercetin, glycosylated flavonols: manghaslin, clitorin, nicotiflorin, rutin,…); tannins; saponin glycosid;…
 
Ngoài ra, lá cây còn chứa nhiều vitamin (đặc biệt là A, B9, B12, C);
các khoáng chất (Ca, Mg, Na, K, Fe, Mn); các acid béo (linoleic acid, linolenic acid).
Với các thành phần hóa học này cho các tác dụng dược lý như kháng khuẩn, kháng nấm, chống giun sán, chống tế bào ung thư, tăng hoạt động của các tế bào miễn dịch, chống oxy hóa, bảo vệ tế bào gan, kháng viêm, hạ đường huyết, chống gout.
 
2-    MỘT SỐ TÁC DỤNG CHỮA BỆNH ĐƯỢC CÔNG NHẬN: 
Cho đến nay, tác dụng chống ung thư của dịch chiết lá đu đủ mới được ghi nhận trong ống nghiệm và trên chuột. Một số loại tế bào ung thư nhạy cảm với dịch chiết lá đu đủ trong ống nghiệm là tế bào ung thư tiền liệt tuyến, gan, cổ tử cung, phổi, tụy, vú… Cơ chế có thể là do sự kích hoạt của caspase-3/7 và con đường ty thể phụ thuộc p53 hoặc bắt giữ các tế bào u trong pha S gây chết tế bào. 
Dịch chiết lá đu đủ đã được chứng minh là làm giảm tính di căn của ung thư như giảm sự kết dính, di chuyển và xâm lấn bằng cách giảm chất nền ngoại bào – chất hoạt động như chất hấp dẫn hóa trị để kết dính và di chuyển tế bào. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn hạn chế và tác dụng mới được ghi nhận trên số ít tế bào ung thư nên cần phải nghiên cứu thêm để khẳng định tác dụng của lá đu đủ. 
Một số nghiên cứu trên lâm sàng sử dụng dịch chiết (dạng viên nang) của lá đu đủ cho bệnh nhân đang điều trị hóa chất bị giảm tiểu cầu cho thấy chúng giúp làm tăng tiểu cầu và cải thiện các chỉ số về đông máu trên nhóm bệnh nhân này. Dịch chiết của lá đu đủ có thể dùng riêng lẻ hoặc kết hợp với một loại thảo dược khác với liều lượng dao động từ 580-2200mg/ngày, thời gian điều trị từ 5-10 ngày. 
Cơ chế được cho là qua hoạt động biểu hiện gen. Carpaine trong chiết xuất lá đu đủ làm tăng hoạt động của một số gen, bao gồm cả thụ thể yếu tố kích hoạt tiểu cầu (PTAFR) và gen arachidonate 12-lipoxygenase (ALOX-12), làm tăng biểu hiện thụ thể CD110 trên tế bào megakaryocyte . Từ đó kích thích tủy xương sản xuất nhiều megakaryocyte hơn. Những tế bào megakaryocytes khi trưởng thành sẽ vỡ ra thành tiểu cầu. Ngoài ra các hợp chất flavoid, chất chống oxy hóa như vitamin C, beta caroten lá đu đủ cũng giúp bảo vệ tế bào, hạn chế tan máu và chảy máu.
Lá xanh là tốt nhất cho sức khỏe của gan. Sự hiện diện của các chất phytochemical như flavonoid và alkaloids cùng với các enzyme như papain trong lá đu đủ hoạt động như những chất giải độc, đồng thời bảo vệ gan và thận khỏi mọi rối loạn chẳng hạn như viêm,  tôi rất hy vọng và tin tưởng rằng lá đu đủ làm tốt gan, nếu như dịch lá đu đủ được cho khuếch tán qua mật ong hay nước đường!
 

NHỮNG PHƯƠNG THUỐC HAY

 MẬT ONG VÀ QUẾ Theo bài đăng trên tạp chí “Tin tức thế giới hàng tuần” (Weekly World News) ngày 17/01/1995 xuất bản tại Canada,...